Thăm mộ Bà Chúa Tằm, tìm hiểu lịch sử ngành tơ lụa xứ Quảng

Quảng Nam, vùng đất nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh mà còn tự hào với nghề tơ lụa lâu đời. Hành trình về thăm mộ Bà Chúa Tằm, tìm hiểu lịch sử ngành tơ lụa xứ Quảng sẽ là một trải nghiệm văn hóa độc đáo, đưa bạn ngược dòng thời gian, khám phá những giá trị truyền thống quý báu.

Bà Chúa Tằm - người đặt nền móng cho ngành tơ lụa xứ Quảng

Bà Chúa Tằm, hay còn gọi là Hiếu Chiêu Hoàng hậu Đoàn Thị Ngọc, là vợ của Chúa Nguyễn Phúc Lan. Bà sinh năm Tân Sửu 1601, con của ông Đoàn Công Nhạn, một Hào trưởng ở làng Chiêm Sơn và bà Võ Thị Ngọc Thành. Gia đình ông Nhạn chuyên nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước bên bờ sông Thu Bồn, dinh Quảng Nam.

Thăm-mộ-bà-Chúa-Tằm-tìm-hiểu-lịch-sử-ngành-tơ-lụa-xứ-Quảng-1

Bà được người dân xứ Quảng tôn kính bởi công lao to lớn trong việc phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Xuất thân từ một cô gái hái dâu, Bà thấu hiểu nỗi vất vả của người nông dân và luôn tận tâm hướng dẫn kỹ thuật trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nhờ sự khuyến khích của bà, nghề tơ lụa ở xứ Quảng ngày càng phát triển, lụa Quảng Nam trở thành sản vật nổi tiếng khắp cả nước, vươn ra thương trường quốc tế.

Giai thoại về mối tình đẹp giữa Bà chúa Tằm Tang và chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1601-1648) cùng với thời kỳ cực thịnh của nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa ở đất dinh trấn Thanh Chiêm vào thế kỷ 17 đã tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện về bà.

Theo sách "Đại Nam liệt truyện tiền biên" của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào một đêm trăng thanh gió mát, Thế tử Nguyễn Phúc Lan theo chân chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên du ngoạn trên sông Thu Bồn thơ mộng thuộc đất dinh trấn Quảng Nam (làng Thanh Chiêm ngày nay). Khi thuyền rồng đi ngang qua làng Chiêm Sơn (nay thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam), tiếng hát trong trẻo, du dương của một cô gái hái dâu bên sông đã làm say đắm lòng người Thế tử trẻ tuổi. Sau khi tìm hiểu, Thế tử biết được nàng là Đoàn Thị Ngọc, con gái của Thạch Quận công Đoàn Công Nhạn. 

Thăm-mộ-bà-Chúa-Tằm-tìm-hiểu-lịch-sử-ngành-tơ-lụa-xứ-Quảng-2

Dân gian lưu truyền một câu chuyện rằng: Vào một đêm trăng sáng năm 1615, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đang trên đường tuần du xứ Quảng Nam. Ngài cùng người con trai thứ hai, Nguyễn Phước Lan, khi ấy khoảng 15 tuổi, dạo thuyền trên dòng sông Thu Bồn thơ mộng. Thuyền ngược dòng đến vùng Chiêm Sơn thuộc huyện Diên Phước, giữa cảnh đêm thanh vắng, bỗng đâu văng vẳng tiếng hát ngọt ngào của một cô gái vọng ra từ cánh đồng dâu theo làn gió thoảng.

Cô gái hát rằng:

Tai nghe Chúa ngự thuyền rồng

Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa.

Một lát sau, giọng hát đó lại cất lên:

Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu

Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình…

Tiếng hát du dương cùng lời ca ngọt ngào của người con gái thôn quê trong đêm thanh vắng đã vô tình chạm đến trái tim chàng công tử Phước Lan. Say đắm và tò mò, chàng xin phép phụ vương cho thuyền rồng ngược dòng sông, tìm kiếm bóng hình giai nhân cất lên tiếng hát ấy. Cuối cùng, định mệnh run rủi cho họ gặp nhau. Nàng là con gái của Hào trưởng Đoàn Công Nhạn, với vẻ đẹp và giọng hát trời phú, nàng được chọn tiến cung hầu vua.

Hai năm sau, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Đoàn Thị Ngọc cho Nhân lộc hầu Nguyễn Phúc Lan. Về sau, khi chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan lên ngôi (tức Hiếu Chiêu Hoàng đế), bà được phong làm Đoàn quý phi, rồi Hiếu Chiêu Hoàng hậu, trở thành mẫu hậu của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687).

Thăm-mộ-bà-Chúa-Tằm-tìm-hiểu-lịch-sử-ngành-tơ-lụa-xứ-Quảng-3

Đoàn Quý phi, ngay cả khi đã là vợ chúa, vẫn luôn nhớ về cội nguồn và gìn giữ nghề dệt lụa truyền thống. Khi bà trở về dinh trấn Thanh Chiêm cùng người con trai là Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần (vị chúa Hiền sau này), bà đã dành nhiều tâm huyết để khuyến khích và phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nhờ công sức của bà, nghề dệt lụa ở xứ sở này đã phát triển cực thịnh vào thế kỷ 17, thời điểm mà Hội An - cảng thị Faifo sầm uất - là nơi giao thương quan trọng trên "con đường tơ lụa trên biển". Lụa từ xứ Đàng Trong theo con đường này đã đến với khắp nơi trên thế giới. Chính vì những đóng góp to lớn đó, người dân trong vùng đã tôn vinh Đoàn Quý phi là Bà chúa Tằm Tang.

Xứ Đàng Trong xưa nổi tiếng với nghề dệt lụa, thu hút thương nhân khắp nơi. Hàng năm, tàu thuyền Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan đều ghé đến để mua tơ sống và các loại lụa. Sản phẩm lụa nơi đây vô cùng đa dạng, từ những loại thông dụng như lượt (lụa trơn, thưa), sa (lụa mỏng, trơn), the (lụa nhẹ, sáng), xuyến (lụa dày màu sáng), nhiễu (lụa trơn, dày và nhuộm đen) đến những loại cao cấp hơn như van (lụa có hoa văn, chất lượng tốt), đoạn (lụa chất lượng rất tốt), gấm (lụa cao cấp) và là (lụa dệt từ tơ nõn, có sọc dọc).

Thăm-mộ-bà-Chúa-Tằm-tìm-hiểu-lịch-sử-ngành-tơ-lụa-xứ-Quảng-6

Năm 1618, khi đến Cửa Hàn, giáo sĩ Christoforo Borri đã rất ấn tượng trước những cánh đồng dâu trù phú trải dài khắp vùng. Ông đã viết: "Người Đàng Trong không chỉ sản xuất đủ tơ cho nhu cầu của mình mà còn cung cấp cho Nhật Bản và Vương quốc Lào, từ đó tơ được chuyển đến Tây Tạng. Loại tơ này tuy không mềm mịn bằng tơ Trung Hoa nhưng lại bền chắc hơn nhiều".

Bà Đoàn Quý Phi qua đời vào ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12/7/1661, thọ 60 tuổi. Vâng theo di nguyện của mẹ, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã đưa bà về an nghỉ tại quê hương Duy Xuyên. 

Lăng mộ Bà Chúa Tằm - điểm đến tâm linh và văn hóa

Năm 1806, vua Gia Long sắc phong cho lăng mộ của Hiếu Chiêu hoàng hậu là lăng Vĩnh Diên và tiến hành trùng tu lần thứ nhất. Đến năm 1814, lăng được trùng tu lần thứ hai. Năm 1824, vua Minh Mạng chỉ dụ Tổng đốc Quảng Nam xây dựng chùa Vĩnh An (còn gọi là Chùa Vua hay Chùa Ngự) giữa lăng Vĩnh Diên và lăng Vĩnh Diễn để thờ phụng các hoàng hậu, hoàng tử, công chúa. Nhà vua còn cắt cử 50 binh lính canh gác hai lăng.

Thăm-mộ-bà-Chúa-Tằm-tìm-hiểu-lịch-sử-ngành-tơ-lụa-xứ-Quảng-4

Lăng mộ của bà Đoàn Quý Phi - Hiếu Chiêu hoàng hậu tọa lạc trên gò Cốc Hùng, một khu đất rộng 2.862m2. Mặt chính của lăng hướng về phía Đông Nam, nhìn ra bàu Kho, phía sau tiếp giáp với nổng Cụp. Phía trước lăng có một dòng kênh rộng và sâu, xưa kia vua chúa, quan lại thường đi thuyền đến đây vào dịp cúng giỗ bà. Vị trí xây lăng hội tụ đầy đủ yếu tố phong thủy, vừa huyền bí, tôn nghiêm, vừa khoáng đạt nhờ vào thế đất long mạch.

Lăng mộ Bà được xây dựng theo kiến trúc cung đình, phần mộ chí ở trung tâm có hình khối chữ nhật với họa tiết trang trí giản dị. Bao quanh lăng là hai lớp thành bảo vệ kiên cố. Hai cổng thành, ba bình phong và mộ chí tạo nên bố cục hài hòa cho khu lăng mộ.

Thành ngoại được xây dựng bằng gạch và đá bazan với kích thước đa dạng, kết dính bởi lớp vữa truyền thống dày dặn làm từ nhựa cây bời lời, mật đường, nhựa dây cơm nguội và vôi. Mặt trên thành được xây bằng gạch và tô vôi, hai trụ cổng hướng Đông Nam cao 2,6m, cạnh 1,8m, cổng rộng 3,53m. Thành ngoại cao 2,6m, bốn góc vững chãi với bốn trụ góc.

Bình phong tiền cao 2,7m, rộng 1,54m, dài 4,5m, phần chân xây bằng đá theo kiểu chân quỳ, phần trên xây gạch và tô vôi. Hai mặt trước sau của bình phong được đắp nổi và tô vẽ hình long mã, diềm bình phong trang trí hoa cúc trắng trên nền đen.

Bình phong hậu của thành ngoại cao 3,1m, dài 7,6m, dày 1,5m, được xây bằng đá và tô vôi. Trên gờ đá, hình ảnh đôi chim phượng được đắp nổi: phượng trống bên trái dang cánh, miệng ngậm kiếm, phượng mái bên phải miệng ngậm cuốn thư, đế được xây gạch theo kiểu chân quỳ.

Thăm-mộ-bà-Chúa-Tằm-tìm-hiểu-lịch-sử-ngành-tơ-lụa-xứ-Quảng-5

Hàng năm, ngoài ngày giỗ chính, lăng mộ Hiếu Chiêu hoàng hậu Đoàn Quý Phi còn được tổ chức tế lễ hai lần vào dịp Thanh minh và Đông chí. Dưới thời Chúa Nguyễn, người chủ trì nghi thức tế lễ là Trấn thủ dinh Quảng Nam. Sau này, khi nhà vua đổi dinh thành tỉnh, chủ tế là Tổng đốc Quảng Nam, và người phụ lễ là Tri phủ Duy Xuyên. Lễ vật được chuẩn bị chu đáo và mang đến từ kinh đô hoặc từ tỉnh đường. Đoàn quan lại khi đến bái yết lăng mộ hoàng hậu, từ khoảng cách 100 mét phải xuống kiệu, nghiêng lọng, và đi bộ trong tiếng nhạc lễ cùng tiếng chuông trống uy nghiêm.

Lăng mộ bà Đoàn Quý Phi đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 2368/QĐ/BVHTTDL ban hành ngày 2/8/2011.

Để đến lăng mộ của Hiếu Chiêu hoàng hậu Đoàn Quý Phi, ngày nay du khách chỉ cần đi thẳng từ ngã ba Nam Phước đến cụp Chiêm Sơn, rẽ trái theo hướng Tây Nam, băng qua cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi khoảng 1km. Vị trí thuận lợi này rất tiện cho việc phát triển các hoạt động du lịch.

Lăng mộ của bà là một trong số ít những lăng mộ thời chúa Nguyễn còn sót lại trên đất Quảng Nam, cùng với lăng mộ của Hiếu Văn hoàng hậu Mạc Thị Giai, công chúa Ngọc Dung, Thống binh thái phó Mạc Cảnh Huống, Tổng trấn Quảng Nam Nguyễn Phúc Kỳ. May mắn thay, những di tích lịch sử quý hiếm này đã thoát khỏi sự tàn phá của nhà Tây Sơn và các cuộc chiến tranh sau này. 

Hiếu Chiêu hoàng hậu Đoàn Thị Ngọc, người được dân gian trìu mến gọi là Bà Chúa tằm tang, không chỉ là hiện thân của nghề tằm tang xứ Quảng mà còn là tấm gương sáng ngời về lòng nhân hậu, thủy chung, đảm đang, trung hiếu và tình yêu thương bao la dành cho dân chúng. Bà sống mãi trong lòng người dân như một biểu tượng cao quý về phẩm chất tốt đẹp và sự gắn bó mật thiết với nhân dân.