Quy định về Hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận điểm du lịch là gì?

Điểm du lịch thường có quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Tuy nhiên, điểm du lịch cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định và có quyết định công nhận điểm du lịch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy thủ tục công nhận điểm du lịch được quy định như thế nào?

Hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận điểm du lịch là quy định được ghi nhận lần đầu tiên tại Luật du lịch năm 2005, trước đây Pháp lệnh Du lịch năm 1999 không nhắc tới vấn đề nêu trên. Luật Du lịch 2017 ra đời đã có những điểm hoàn thiện và cụ thể hơn so với quy định của Luật Du lịch 2005. Về hồ sơ đề nghị công nhận điểm du lịch, Khoản 1 Điều 24 Luật Du lịch 2017 quy định: 

“1. Hồ sơ đề nghị công nhận điểm du lịch bao gồm:

  • a) Đơn đề nghị công nhận điểm du lịch theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định;
  • b) Bản thuyết minh về điều kiện công nhận điểm du lịch quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này.”

Luật Du lịch 2017 quy định rõ về Đơn đề nghị công nhận điểm du lịch phải thực hiện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định, khác với Tờ trình đề nghị công nhận điểm du lịch của cơ quan nhà nước về du lịch có thẩm quyền được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 26 Luật Du lịch 2005.

Mặt khác, do khác nhau về Điều kiện công nhận điểm du lịch dẫn đến Bản thuyết minh về điều kiện công nhận điểm du lịch cũng có sự khác biệt. Luật Du lịch 2017 không còn quy định về điểm du lịch quốc gia và điểm du lịch địa phương như Luật Du lịch 2005, thay vào đó, trong Bản thuyết minh về điều kiện công nhận điểm du lịch phải nêu rõ: 

  • Có tài nguyên du lịch, có ranh giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Tỷ lệ bản đồ phụ thuộc vào yêu cầu quản lý và địa hình khu vực.
  • Có kết cấu hạ tầng, dịch vụ cần thiết bảo đảm phục vụ khách du lịch, bao gồm: Có kết nối giao thông, thông tin liên lạc thuận lợi; Có điện, nước sạch; Có biển chỉ dẫn, thuyết minh về điểm du lịch; Có dịch vụ ăn uống, mua sắm.
  • Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, bao gồm: Có bộ phận bảo vệ trực 24 giờ mỗi ngày; Công khai số điện thoại, địa chỉ của tổ chức, cá nhân quản lý điểm du lịch; Có hình thức tiếp nhận và giải quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị của khách du lịch;  Nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ, được thông gió và đủ ánh sáng, được bố trí đủ, tương ứng với số lượng khách du lịch vào thời kỳ cao điểm; Có biện pháp thu gom và xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; bố trí nhân lực làm vệ sinh môi trường; Áp dụng các biện pháp phòng, chống cháy nổ theo quy định của pháp luật.
1-1-1

Khoản 2 Điều 24 Luật Du lịch 2017 quy định Trình tự, thủ tục, thẩm quyền đề nghị công nhận điểm du lịch:

“a) Tổ chức, cá nhân sở hữu, quản lý điểm du lịch nộp 01 bộ hồ sơ đến cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về du lịch (sau đây gọi chung là cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh) nơi có điểm du lịch;

  • b) Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan chuyên môn về du lịch cấp tỉnh thẩm định, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
  • c) Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được kết quả thẩm định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận điểm du lịch; trường hợp từ chối, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.”

Điểm mới của Luật Du Lịch 2017 đó là quy định rõ ràng, đầy đủ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền đề nghị công nhận điểm du lịch. Luật Du lịch 2005 mới chỉ quy định về điều kiện, hồ sơ và thẩm quyền công nhận khu du lịch, điểm du lịch theo các cấp độ, thiếu quy định về trình tự, thủ tục công nhận. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến việc công nhận khu du lịch, điểm du lịch khó triển khai trong thời gian qua. Từ những bất cập trên, Luật Du lịch 2017 đã quy định cụ thể chủ thể nộp hồ sơ, cơ quan tiếp nhận, thẩm định và trình tự, thủ tục công nhận khu, điểm du lịch theo từng cấp độ. Đặc biệt, Luật đã bổ sung quy định về thu hồi quyết định công nhận trong trường hợp khu du lịch, điểm du lịch không còn đảm bảo các điều kiện công nhận nhằm bảo đảm các điểm du lịch, khu du lịch phải luôn duy trì các điều kiện đã được quy định trong Luật.

Về thẩm quyền công nhận cũng đã được điều chỉnh, ở Luật Du lịch 2005, Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận điểm du lịch quốc gia, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận điểm du lịch địa phương, Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương công bố điểm du lịch quốc gia sau khi có quyết định công nhận, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố điểm du lịch địa phương sau khi có quyết định công nhận (Điều 27 Luật Du lịch 2005) nhưng theo quy định của Luật Du lịch 2017, UBND tỉnh/thành phố quyết định công nhận điểm du lịch (Điều 24 Luật Du lịch 2017).

Nhìn chung, những điều chỉnh về trình tự, thủ tục, thẩm quyền như trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, cơ quan, tổ chức, cá nhân sở hữu, quản lý khu du lịch, điểm du lịch chủ động trong việc lập hồ sơ và tổ chức thẩm định, công nhận điểm du lịch.

Thực hiện biên tập: Cử nhân Luật học Dương Thị Hà Anh

Hiệu đính bởi Luật gia Trần Việt Dũng, Phó Tổng giám đốc Crystal Bay Tourism Group