Là trung tâm chính trị và quân sự dưới triều Nguyễn, Kinh thành Huế được quy hoạch chặt chẽ với nhiều lớp tường thành và cửa ra vào. Mỗi cửa đều mang chức năng riêng, gắn liền với giao thông, phòng thủ và phong thủy.
Kinh thành Huế có tổng cộng 13 cửa thành, trong đó gồm 10 cửa chính nối ra bên ngoài, 1 cửa nội bộ dẫn đến Trấn Bình Đài và 2 cửa đường thủy cho phép giao thông thủy giữa sông Ngự Hà với sông Kẻ Vạn ở phía Tây và sông Đông Ba ở phía Đông.
Cửa nằm ở phía Nam Kinh thành, cuối đường Nguyễn Trãi, dân gian vẫn gọi là cửa Nhà Đồ. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu bên trên xây năm 1829. Lúc đầu, phía bên ngoài cửa có cục Tượng Ty, hay còn gọi là Đồ Gia, là kho chứa vật dụng, binh khí, dịch nôm na hai chữ Đồ Gia là Nhà Đồ, vì thế cửa Chánh Nam còn có tên gọi là cửa Nhà Đồ.
Cửa này nằm ở góc Đông Nam của Kinh thành Huế. Vòm cửa được xây dựng vào năm 1809 dưới triều vua Gia Long, đến năm 1829 dưới thời vua Minh Mạng thì vọng lâu phía trên mới được dựng thêm. Tên gọi Thượng Tứ bắt nguồn từ việc ngày xưa, phía trong cửa thành từng có Viện Thượng Tứ – cơ quan phụ trách việc nuôi ngựa kéo xe cho nhà vua.
Cửa Quảng Đức, còn gọi là cửa Sập, nằm bên phải Kỳ Đài, nối từ đường Lê Duẩn vào đường 23 Tháng 8. Năm 1953, cửa bị sụp đổ do lũ lụt, nên dân gian gọi là “Cửa Sập”. Đây là một trong hai cửa dành riêng cho vua và hoàng gia ra vào, cùng với cửa Ngăn. Trước đó, người dân gọi cửa này là cửa Ngăn Trên để phân biệt với cửa Ngăn Dưới. Hiện tại, nơi đây còn lưu giữ hai trong chín khẩu thần công nổi tiếng của triều Nguyễn.
Cửa này thường được gọi là cửa Ngăn, nằm ở phía Nam, bên trái Kỳ Đài của Kinh thành Huế. Vòm cửa được xây dựng vào năm 1809, đến năm 1829 vua Minh Mạng cho xây thêm vọng lâu phía trên. Ban đầu, cửa có tên là Thể Nguyên. Khi vọng lâu hoàn thành, vua cho đổi tên thành Thể Nhân (hoặc Thể Nhơn).
Tuy nhiên, dân gian quen gọi là cửa Ngăn vì mỗi khi vua và cung phi đi từ Đại Nội ra Phu Văn Lâu hay nhà Lương Tạ để hóng mát hoặc tắm sông, lính canh đều ngăn cản dân thường qua lại lối này.
Cửa Chánh Đông còn gọi là cửa Đông Ba, là một trong những cửa chính ở phía Đông của Kinh thành Huế, tọa lạc trên đường Mai Thúc Loan, gần trục đường Xuân 68. Cửa này gắn liền với khu vực chợ Đông Ba nổi tiếng ngày nay. Trước kia, nơi đây có chợ Đông Hoa được lập từ thời vua Gia Long.
Sau sự kiện Kinh đô thất thủ, chợ bị thực dân Pháp đốt phá. Đến triều Đồng Khánh, chợ được xây dựng lại và đổi tên thành Đông Ba nhằm tránh tên húy bà Hồ Thị Hoa, thân mẫu của vua Thiệu Trị. Thời vua Thành Thái, chợ được quy hoạch và chuyển đến vị trí hiện nay.
Cửa Chánh Bắc nằm án ngữ mặt sau Kinh thành. Cửa Hậu nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng, đi ra ngoài sẽ là đường Tăng Bạt Hổ, tiếp nữa sẽ là cầu Bạch Yến bắc qua sông Cửa Hậu. Cửa Chánh Bắc còn có tên gọi nữa là cửa Mang Cá lớn. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm được Kinh thành, cửa Mang Cá lớn đã bị đóng kín lập nên Đồn Mang Cá. Do hậu quả chiến tranh cửa này hơn 100 năm không được khai thông, mãi đến năm 2004 tỉnh Thừa Thiên Huế mới cho mở lại.
Cửa Đông Bắc, còn gọi là Cửa Kẻ Trài, nằm ở góc Đông Bắc của Hoàng thành Huế, nay thuộc tuyến đường mang tên Cửa Trài. Tên gọi "Kẻ Trài" xuất phát từ một xóm nhỏ từng nằm trước cửa thành, nơi người dân tập trung buôn bán, dựng lên hai dãy nhà, lều quán san sát ven sông.
Theo thời gian, cái tên "nhà trài" được người dân Huế quen gọi và trở thành tên chính thức của cửa thành này. Hiện nay, khu vực bên trong cửa thuộc sự quản lý của quân đội, do đó người dân và du khách khó có thể tiếp cận nếu không có lý do chính đáng.
Cửa Chánh Tây nằm ở phía Tây Kinh thành, trên đường Thái Phiên ngày nay. Nơi này từng là nơi giao tranh ác liệt trong chiến sự Mùa Xuân 1968. Phần vọng lâu phía trên thành đã hoàn toàn bị phá hủy, nay được tu sửa phục dựng lại.
Cửa Tây Nam, còn gọi là cửa Hữu, tọa lạc ở góc Tây Nam của Hoàng thành Huế. Dù không giữ vai trò trọng yếu như một số cửa chính khác, nhưng cửa vẫn được xây dựng vững chắc nhằm đảm bảo việc đi lại thuận tiện cho lực lượng bảo vệ nội cung. Vòm cửa được xây dựng từ năm 1809, còn vọng lâu phía trên được bổ sung vào năm 1829.
Vào đêm mùng 5 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi đã chọn cửa này để rời khỏi kinh thành, lên đường ra chiến khu ở Quảng Trị, khởi xướng phong trào Cần Vương chống Pháp. Trong chiến sự năm 1968, cửa bị phá hủy và chỉ được phục dựng lại sau này.
Cửa Tây Bắc còn có tên là cửa An Hòa nằm ở góc Tây Bắc của kinh thành, nối từ đường Nguyễn Trãi ra thẳng đường Tăng Bạt Hổ.
Vòm cửa Tây Bắc được xây dựng năm 1809, vọng lâu xây năm 1831. Người dân Huế gọi là cửa An Hòa vì trước mặt cửa thành này là làng An Hòa và chợ An Hòa.
Trấn Bình Môn là một cửa phụ trong hệ thống tường thành của Kinh Thành Huế, không mở ra bên ngoài mà dẫn trực tiếp đến Trấn Bình Đài. Cửa được đặt tại vị trí trung tâm của đoạn thành nối liền hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình. Phía trước cửa có một cây cầu bằng đá và gạch bắc qua hào nước, tạo lối liên thông giữa khu vực thành chính và thành phụ, đảm bảo sự kết nối trong nội bộ kiến trúc quân sự của kinh thành.
Tây Thành Thủy Quan là công trình dẫn nước từ sông Kẻ Vạn vào sông Ngự Hà – dòng sông đào chảy xuyên qua Kinh thành Huế. Không chỉ đảm nhiệm chức năng tiêu thoát nước cho nội thành, thủy quan này còn đóng vai trò là tuyến đường thủy quan trọng, nơi ghe thuyền từ khắp nơi chở hàng hóa về kinh thành, đặc biệt là cung cấp cho hệ thống kho tàng của triều đình nằm ở khu vực phía Bắc và phía Tây hồ Tịnh Tâm ngày nay.
Công trình được vua Minh Mạng cho xây dựng vào năm 1826, ngay sau khi việc đào sông Ngự Hà hoàn tất. Thủy quan gồm một cống vòm nằm bên dưới cầu Tây Thành Thủy Quan, có gắn áp quan – tức tấm cửa gỗ – có thể linh hoạt đóng mở, cho phép ghe thuyền lưu thông thuận tiện.
Đông Thành Thủy Quan là cửa dẫn nước từ Ngự Hà đổ ra sông Đông Ba. Đây là một cống vòm nằm bên dưới cầu Lương Y, được vua Minh Mạng cho xây dựng vào năm 1830. Trước kia, cửa này cũng có áp quan, tức tấm cửa gỗ dùng để điều tiết việc lưu thông ghe thuyền, tương tự như tại Tây Thành Thủy Quan.
Hệ thống 13 cửa thành của Kinh thành Huế không chỉ thể hiện tư duy xây dựng thông minh mà còn góp phần tạo nên giá trị lịch sử - kiến trúc độc đáo cho vùng đất cố đô. Đây là những điểm dừng chân lý tưởng nếu bạn muốn hiểu sâu hơn về một Huế cổ kính và trầm mặc.