Theo Wikipedia, trước đây, Hồ Tây có các tên gọi như Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ. Thuộc địa phận quận Tây Hồ, hồ Tây xưa kia là hồ móng ngựa và vết tích của dòng chảy cũ sông Hồng. Hồ có chu vi 14,8km và diện tích hơn 500ha.
Cũng theo Báo Điện tử Chính phủ trích từ Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, cố GS. Trần Quốc Vượng từng cho biết Hồ Tây có tên Dâm Đàm từ thời Lý - Trần, với ý nghĩa là Hồ mù sương. Sau đó, người ta đổi tên là Tây Hồ vào năm 1573 để tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông.
Dưới đây là chi tiết ý nghĩa các tên gọi cũ của Hồ Tây, dựa theo thông tin trích từ Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long.

Có lẽ, Đầm Xác Cáo là tên gọi mang màu sắc huyền thoại và cổ xưa nhất của Hồ Tây. Cái tên nhuốm màu kỳ bí này gắn liền với truyền thuyết về một con hồ ly tinh chín đuôi (cửu vĩ hồ) gieo rắc kinh hoàng cho dân lành thuở hồng hoang. Theo các câu chuyện dân gian được lưu truyền, khu vực Hồ Tây xưa kia là một vùng rừng rậm hoang vu, núi non trập trùng. Con yêu hồ này đã chiếm cứ nơi đây, tác oai tác quái, khiến cuộc sống người dân vô cùng khổ sở.
Việc diệt trừ hồ ly tinh được kể lại qua nhiều dị bản khác nhau, phản ánh tín ngưỡng và trí tưởng tượng phong phú của người xưa. Một truyền thuyết kể rằng, Lạc Long Quân, vị cha huyền thoại của dân tộc Việt, vì thương xót cảnh lầm than của con dân đã dâng nước biển lên nhấn chìm hang ổ của yêu quái, tiêu diệt con cáo gian ác và tạo nên một hồ nước mênh mông. Từ đó, hồ được gọi là Đầm Xác Cáo, như một lời nhắc nhở về sự kiện kinh thiên động địa này.
Một dị bản khác lại kể công diệt trừ yêu hồ thuộc về Huyền Thiên Trấn Vũ, một trong Tứ Trấn của kinh thành Thăng Long xưa. Nghe lời kêu than thảm thiết của dân chúng, ngài đã ra tay nghĩa hiệp. Sau khi Huyền Thiên diệt được hồ ly tinh, thân xác nó lún sâu xuống đất, tạo thành một vùng trũng lớn, nước tụ lại thành hồ. Dân làng biết ơn đã đặt tên hồ là Đầm Xác Cáo để ghi nhớ công ơn của vị thần
Một tên gọi khác cũng đậm chất huyền thoại không kém là Hồ Kim Ngưu, đi liền với sự tích Trâu Vàng. Khi chiếc chuông Quy Điền khổng lồ được đúc xong và thỉnh lên, tiếng chuông vang xa ngàn dặm. Ở phương Bắc xa xôi, có một con trâu vàng (Kim Ngưu) nghe thấy tiếng chuông, ngỡ là tiếng trâu mẹ gọi liền lồng lên chạy sang phương Nam tìm kiếm.
Khi đến gần khu vực có tiếng chuông (nay là Hồ Tây), con trâu vàng cứ quần thảo, chạy quanh tìm mẹ. Nó dùng sừng húc, chân đạp làm sụt lún cả một vùng đất rộng lớn. Cuối cùng, cả con trâu vàng lẫn quả chuông khổng lồ đều bị sụt xuống vực sâu ấy, nước tràn vào tạo thành hồ. Người ta đã cố gắng tìm cách vớt chuông và trâu vàng nhưng không thành.

Khác với hai tên gọi nhuốm màu huyền thoại kể trên, Lãng Bạc lại là một cái tên mang đậm dấu ấn lịch sử, gắn liền với thời kỳ Bắc thuộc. Theo sách "Tây Hồ chí", sau khi Mã Viện, một tướng quân nhà Hán, dập tắt cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng vào thế kỷ I SCN, ông ta đã đặt tên cho hồ nước này là Lãng Bạc. "Lãng Bạc" có nghĩa là hồ đầy sóng vỗ, hoặc hồ có những con sóng bạc đầu.
Tên gọi Dâm Đàm cũng là một trong những danh xưng cổ của Hồ Tây, nhưng ý nghĩa và thời điểm xuất hiện của nó lại có nhiều cách diễn giải. Một nghĩa phổ biến cho rằng "Dâm Đàm" có nghĩa là đầm nước mênh mông, tràn đầy, nhằm mô tả sự rộng lớn, bao la của hồ.
Tuy nhiên, theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, một nhà nghiên cứu văn hóa hàng đầu, tên Dâm Đàm đã xuất hiện từ thời Lý - Trần (thế kỷ X - XV) và mang một ý nghĩa thơ mộng hơn: "Hồ mù sương".
Như đã đề cập, tên gọi Tây Hồ chính thức xuất hiện từ năm 1573 để thay thế cho Dâm Đàm. Ngoài lý do chính là tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông, một số nhà nghiên cứu cho rằng việc đặt tên Tây Hồ còn có thể hàm ý so sánh với Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu, Trung Quốc, một thắng cảnh lừng danh.
Việc này không phải là hiếm trong lịch sử, khi nhiều địa danh ở Việt Nam được đặt tên theo các địa danh nổi tiếng của phương Bắc. Một cách giải thích khác, đơn giản hơn, cho rằng Tây Hồ có nghĩa là hồ ở phía Tây của kinh thành Thăng Long. Dù vậy, cách giải thích này đôi khi bị cho là không hoàn toàn chính xác nếu xét kỹ về vị trí địa lý tương đối.
Cách đọc Hán Việt của Tây Hồ là Hồ Tây. Cái tên này đã trở thành tên gọi quen thuộc, gần gũi và đi sâu vào tiềm thức của người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước. Nó không chỉ đơn thuần là một danh từ chỉ địa điểm mà còn là một biểu tượng của vẻ đẹp, sự lãng mạn và chiều sâu văn hóa của Thủ đô.

Một cái tên khác ít được biết đến hơn là Đoài Hồ. Tên gọi này xuất hiện vào thời chúa Trịnh Tạc (trị vì 1657 – 1682). Chúa Trịnh Tạc được phong tước Tây Vương. Theo lệ thời phong kiến, những địa danh có chữ trùng với tên hiệu hoặc tước vị của bậc cai trị thường phải đổi đi. Do đó, chữ "Tây" trong Tây Hồ bị coi là phạm húy. Để tránh điều này, Tây Hồ đã được lệnh đổi thành Đoài Hồ.
Sau khi chúa Trịnh Tạc qua đời, người dân lại quen gọi lại tên cũ là Hồ Tây. Dù chỉ là một danh xưng thoáng qua, Đoài Hồ cũng cho thấy sự ảnh hưởng của những biến động chính trị đến đời sống văn hóa, bao gồm cả tên gọi của các địa danh.